Tại sao kinh tế toàn cầu phục hồi nhanh hơn dự kiến?

Home / Phân tích / Tại sao kinh tế toàn cầu phục hồi nhanh hơn dự kiến?

Tác động kinh tế của Covid-19 vẫn còn đáng ngạc nhiên. Vào mùa xuân, các cuộc phong tỏa ở nhiều nơi đã đẩy hoạt động kinh tế lên mức không thể tưởng tượng được. Tuy nhiên, sự phục hồi diễn ra mạnh mẽ và sớm hơn dự kiến. Một số lĩnh vực tại Hoa Kỳ và các nền kinh tế khác đã trở lại mức trước khủng hoảng.

Nỗi sợ hãi vẫn chưa được giải quyết.

Khi Covid-19 buộc nền kinh tế đóng cửa suy thoái, quá trình này bắt đầu một cách tàn bạo, phá vỡ nhiều kỷ lục tiêu cực trước đó. Tuy nhiên, theo hội đồng chuyên gia của Viện BCG Henderson (Mỹ), tác động lâu dài của đại dịch đối với hệ thống và các đại dịch theo chu kỳ đã được nhiều người đánh giá quá cao, bởi vì cường độ ngắn hạn của cú sốc đã dẫn đến sự lan rộng của sự bi quan về kinh tế. .

Những nỗi lo sợ mang tính hệ thống này được đưa vào dự đoán rằng một cuộc Đại suy thoái khác sắp tới sẽ dẫn đến các vụ vỡ nợ có chủ quyền, sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng và giảm phát. Ngay cả khi họ vay rất nhiều. Và có ít vấn đề thanh khoản hơn trong hệ thống ngân hàng. Vì vậy, cuối cùng, mối quan tâm hệ thống này đã không thành hiện thực, và nó chưa bao giờ nguy hiểm như năm 2008.

Tháng trước, người Mỹ đang mua sắm tại một chợ nông sản ở Oxford, Mississippi. Ảnh: AP .

Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ số cơ bản về sức khỏe kinh tế và dự kiến ​​sẽ ở mức cao vào cuối năm 2021. Các nhà phân tích dự đoán mức độ của làn sóng phá sản, sự suy yếu của thị trường bất động sản và khả năng sụp đổ kinh tế.

Đó vẫn là một mức không thể chấp nhận được, nhưng tỷ lệ thất nghiệp đã giảm nhanh hơn và nhanh hơn nhiều so với dự kiến. Vào tháng 9, tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ thấp hơn so với dự báo trước đó vào cuối năm 2021.

Thị trường bất động sản cho thấy khả năng phục hồi đáng kể, giá hầu như không giảm và doanh số bán hàng tăng lên. Nhiều lĩnh vực của nền kinh tế Mỹ đã trở lại mức trước khủng hoảng. Thật vậy, GDP của đất nước trong quý thứ ba là mức tăng trưởng hàng quý mạnh nhất được ghi nhận. Mặc dù điều này không phản ánh sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ hay mức độ trước khủng hoảng của nó, nhưng đây là một sự phục hồi rất mạnh kể từ quý II.

Điều này cũng đúng ở nhiều nơi trên thế giới. thế giới. Tuy nhiên, khi các chỉ số kinh tế mới nhất cho thấy sự phục hồi lạc quan hơn dự kiến, thì ngoại lệ là Trung Quốc, nước có khả năng phục hồi ban đầu được cho là hoàn toàn cố thủ. Covid-19 suy thoái-Ba khía cạnh của suy thoái kinh tế có thể giúp định hình động lực phục hồi. Suy thoái do Covid-19 gây ra có những đặc điểm nổi bật, phần lớn giúp giải thích tại sao phục hồi nhanh hơn.

Bản chất của suy thoái: Khía cạnh này tính đến các động lực tiềm ẩn của suy thoái, chẳng hạn như vỡ nợ đầu tư, khủng hoảng tài chính, sai sót chính sách hoặc các cú sốc bên ngoài ảnh hưởng đến nền kinh tế.

Mặc dù tác động của Covid-19 là rất lớn, nhưng bản chất của nó khác với đầu tư vỡ nợ hay khủng hoảng tài chính. Là trung tâm của hai cuộc suy thoái gần nhất (2001 và 2008-2009). Khi đại dịch suy thoái xảy ra, sẽ không có vấn đề về cấu trúc, đây là vấn đề về sự phục hồi bị trì hoãn.

Phản hồi chính sách: Điều này xác định đường dẫn khôi phục. Tại Hoa Kỳ, tốc độ, tính khả thi và hiệu quả của chính sách tài khóa đã được chứng minh. Theo các chuyên gia BCG, ý kiến ​​cho rằng số người bị nhiễm và thiệt mạng do Covid-19 có liên quan chặt chẽ đến hiệu quả kinh tế là “sai”. Họ cho rằng mối tương quan này là yếu, bởi vì có thể hiểu chính xác rằng một phản ứng chính sách mạnh mẽ có thể giúp giảm bớt thiệt hại kinh tế nhất định do các biện pháp chống dịch gây ra. Tác dụng cuối cùng của chính sách này là ngăn chặn một loại “lây lan” khác. Đó là gia đình, công ty phá sản, và hệ thống ngân hàng không ổn định. Đây là nguyên nhân dẫn đến hư hỏng kết cấu.

Thiệt hại về cấu trúc: Đây là một yếu tố quan trọng trong việc xác định hình dạng của suy thoái. Khi suy thoái kinh tế dẫn đến giảm chi tiêu vốn và từ bỏ lao động, năng suất của nền kinh tế sẽ giảm sút. Đây là điều đã xảy ra ở Hoa Kỳ vào năm 2008, khi cuộc khủng hoảng tài chính làm gián đoạn sự tăng trưởng của dự trữ và khiến việc quay trở lại mức trước khủng hoảng trở nên khó khăn hơn.

Về vấn đề này, Covid đã góp phần vào cuộc suy thoái La, bởi vì không có “dư nợ”, có nghĩa là không có khoản đầu tư hoặc khoản vay dư thừa nào được giải quyết. Ngoài ra, không giống như năm 2008, phản ứng chính trị nhanh chóng bị gián đoạnTình trạng phá sản đã dừng lại và kích thích sự phục hồi hình chữ V với các lệnh sản xuất mạnh mẽ. Ban hội thẩm nhận xét: “Cho đến nay, cuộc suy thoái Covid-19 dường như đã tránh được những thiệt hại lớn về cấu trúc.” Sự phục hồi kinh tế vẫn không thể đoán trước?

Kinh tế suy sụp vẫn thường thấy trong các cuộc họp công ty. Một tình huống rất tồi tệ thường được đề cập là suy thoái hình chữ W, nghĩa là sau đợt phục hồi ban đầu, lại có một đợt suy thoái khác. Nói cách khác, tại Hoa Kỳ, sau sự sụp đổ trong quý II, sự phục hồi mạnh mẽ trong quý III có thể đòi hỏi tăng trưởng âm trong quý IV hoặc quý I / 2021.

Việc đó đã xảy ra khi nào? Vì lý do này, phải có một đợt dịch virus mạnh, kèm theo sự phong tỏa nghiêm ngặt. Theo các chuyên gia, mặc dù một đợt ngừng hoạt động khác có thể xảy ra ở châu Âu, nhưng ở Mỹ, việc ngừng hoạt động có chọn lọc, có động cơ chính trị sẽ có nhiều khả năng xảy ra hơn. Thị trường Mỹ trong quý này và năm sau đáng lẽ sẽ khả quan nhưng cũng có một số rủi ro. Ví dụ, việc tiếp tục không mở rộng các biện pháp kích thích tài khóa có thể làm chậm nhóm phục hồi. Tình trạng bất ổn chính trị liên quan đến kết quả bầu cử gây tranh cãi cũng được đưa vào danh sách rủi ro.

Ý nghĩa đối với doanh nghiệp

Trong thời kỳ khủng hoảng, mọi người thường cảm thấy bi quan và lo sợ. Tuy nhiên, xu hướng bi quan và thoái lui cũng là nguyên nhân dẫn đến rủi ro. Một cuộc khảo sát của Boston Consulting Group cho thấy trong thời kỳ suy thoái, 14% công ty Mỹ đã tăng doanh thu và các chuyên gia về tỷ suất lợi nhuận cho rằng điều này không phải do họ gặp may. Nó nằm trong ngành tiếp nhận, nhưng chủ yếu là vì nó có khả năng vượt qua các cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và sử dụng lợi thế riêng của mình để thúc đẩy tăng trưởng đáng kể trong các hoạt động mới. — “Theo dõi bức tranh tổng thể luôn quan trọng, nhưng các nhà điều hành không nên đánh giá thấp tầm quan trọng của việc đo lường, phân tích và sử dụng các lĩnh vực và động lực thị trường của chính họ. Họ có thể đầu tư và phát triển thịnh vượng trong thời kỳ phục hồi và sau khủng hoảng”, các chuyên gia khuyên nhóm.

Hội nghị (từ “Harvard Business Review”)

Leave a Reply

Your email address will not be published.