Trái đất có nuôi sống 7 tỷ người không?

Home / Phân tích / Trái đất có nuôi sống 7 tỷ người không?

Nhà sinh học toán học, giám đốc Phòng thí nghiệm Dân số của Đại học Rockefeller và Đại học Columbia, nhà sinh vật học toán học, Tiến sĩ Joel E. Cohen, tác giả của cuốn sách “Trái đất có thể nuôi bao nhiêu người”. Phân tích sâu về diễn biến dân số thế giới và tác động của nó và đề xuất giải pháp.

Câu hỏi đầu tiên là muốn biết liệu trái đất có thể nuôi sống 7 tỷ người ngày nay và 3 tỷ người vào cuối thế kỷ này hay không? Sự gia tăng số lượng hộ gia đình và thành phố, và tiêu thụ vật liệu và chất thải có liên quan đến nhân phẩm, sức khỏe, chất lượng môi trường và khả năng thoát nghèo?

Khu rừng xi măng – một tòa nhà chung cư ở Hồng Kông. Ảnh: CBC-Trên thực tế, thế giới có khả năng nuôi sống, cung cấp nơi ở và làm giàu cho nhiều người hơn trong một khoảng thời gian ngắn. Từ năm 1820 (thời đại công nghiệp ra đời) đến năm 2008 khi nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn suy thoái, sản lượng kinh tế bình quân đầu người tăng 11 lần. Trong vài nghìn năm qua, tuổi thọ con người đã tăng gấp ba lần, đạt mức trung bình toàn cầu là 70 tuổi. Từ năm 1950 đến nay, số con trung bình của mỗi phụ nữ đã giảm từ 5 xuống còn 2,5 con. Dân số thế giới đang tăng với tốc độ trung bình hàng năm là 1,1%, bằng khoảng một nửa tốc độ tăng trong những năm 1060. Lãi suất giảm khiến các gia đình và xã hội tập trung vào chăm sóc trẻ em. Thay vì tập trung vào số lượng.

Trên thực tế, gần 2/3 phụ nữ sinh đẻ sử dụng các biện pháp tránh thai, điều này đã giúp nhiều phụ nữ tránh được cái chết của liềm khi sinh nở và sẩy thai trong một năm. Những người ủng hộ phá thai có lý do để ăn mừng.

Nhưng thế giới tràn ngập tin xấu: Gần một nửa dân số thế giới sống bằng 2 đô la Mỹ mỗi ngày. Trung Quốc là 36% và Ấn Độ là 76%. Hơn 800 triệu người sống trong các khu ổ chuột. Một con số tương tự, chủ yếu là phụ nữ, vẫn chưa biết chữ. -Các mốc dân số thế giới-1,0 tỷ-1,804 tỷ-1927 3 tỷ-1959 4 tỷ-1974 5 tỷ-1987 6 tỷ-1999 7 tỷ-2011-Nguồn: UNFPA-chủ yếu ở Châu Phi và Ở Nam Á, khoảng 850 đến 925 triệu người gặp khó khăn về an ninh lương thực hoặc suy dinh dưỡng trầm trọng, và hơn một nửa số trẻ em bị còi cọc do đói triền miên. Mặc dù 2,3 tỷ tấn thực phẩm đã được sản xuất trên toàn cầu trong năm 2009-10 – đủ để đáp ứng nhu cầu calo của 900-1,1 tỷ người – chỉ 46% thực phẩm được phân phối cho dân số. Gia súc, gia cầm chiếm 34%, trong khi ngành sản xuất dầu sinh học, tinh bột và nhựa chiếm 19%.

Trong số 208 triệu ca mang thai năm 2008, 86 triệu ca mang thai ngoài ý muốn, trong đó 33 triệu ca sinh không có kế hoạch. Hơn nữa, vấn đề có con ngoài ý muốn không phải là toàn bộ vấn đề: năm 2002, Niger, quốc gia có tỷ lệ mang thai cao nhất thế giới, đã cho uống thuốc tránh thai miễn phí. Độ tuổi trung bình của phụ nữ đã kết hôn ở Niger là 15,5 tuổi. Năm 2006, các bà vợ và chồng ở Nigeria hy vọng mỗi gia đình sẽ có 8,8 và 12,6 con. — Thời gian trôi qua, mặc dù khí quyển, đại dương và lục địa không lớn hơn con người sinh ra, nhưng nhu cầu của con người đối với trái đất đã tăng lên rất nhiều. Đã có hơn một tỷ người sống trong các khu vực không đủ tài nguyên nước ngọt tái tạo.

Khoảng 2/3 lượng nước ngọt trên trái đất được sử dụng cho nông nghiệp. Trong nửa thế kỷ tới, khi thu nhập cá nhân tăng lên, mọi người sẽ tìm mua các sản phẩm nông nghiệp cần nhiều nước hơn. Tiêu thụ nước đô thị và công nghiệp ở các nước đang phát triển sẽ gấp ba lần các nước đang phát triển.

Dự kiến ​​sẽ có tình trạng thiếu nước nghiêm trọng ở Bắc Ấn Độ và Châu Phi. Ấn Độ, Trung Quốc, một phần châu Âu, đông Úc, tây Hoa Kỳ, v.v. Biến đổi khí hậu sẽ làm tăng việc sử dụng nước cho nông nghiệp ở Bắc Mỹ và châu Á, nhưng sẽ làm giảm việc sử dụng nước ở châu Phi, Mỹ Latinh và Caribe. Tình trạng tương tự có thể xảy ra ở đất nông nghiệp, đánh bắt cá quá mức và phát thải carbon và nitơ vào khí quyển. Ảnh: AFP-Tình trạng này dẫn chúng ta đến đâu? Trong nửa sau của thế kỷ này, cán cân địa chính trị sẽ thay đổi đáng kể: số trẻ em trên mỗi phụ nữ sẽ giảm, số lượng gia đình giảm, nhưng dân số lại tăng lên. Với dân số già, số lượng thành phố sẽ tiếp tục phát triển.

Ở một số vùng, mức tăng dân số ít hơn mức tăng của số hộ gia đình. Nếu mỗi gia đình đều có tủ lạnh riêng thì mĐiều hòa không khí, ti vi và ô tô cá nhân sẽ làm tăng nhu cầu năng lượng trung bình, trong khi số thành viên mỗi hộ gia đình sẽ giảm.

Người ta ước tính cứ 5 ngày dân thành thị sẽ sống một lần. Ít nhất từ ​​nay đến năm 2030, các nước đang phát triển sẽ tăng thêm 1 triệu người, còn dân số nông thôn giảm. Nhiều thành phố sẽ “nuốt chửng” đất nông nghiệp. Đến năm 2015, gần một nửa tỷ lệ tăng dân số đô thị sẽ xảy ra ở các thành phố có dân số dưới 500.000 người.

Cuộc cách mạng già hóa dân số đang diễn ra ở các nước phát triển hơn. Nó sẽ lan rộng trên toàn thế giới vào cuối thế kỷ này. Đến năm 2070, dân số cao tuổi sẽ vượt quá số trẻ em dưới 15 tuổi, với chỉ 3 người trong độ tuổi lao động chứ không phải 2 người trong độ tuổi lao động. Áp lực kéo dài “tuổi lao động” sẽ ngày càng trở nên cấp thiết.

Kinh tế phát triển có phải là phương pháp tránh thai tốt nhất không? Hay biện pháp tránh thai tự nguyện là hình thức phát triển kinh tế tốt nhất? Thế giới cần một chiếc bánh lớn hơn (nhiều công nghệ sản xuất hơn) hay ít người hơn (dân số tăng chậm lại do tự nguyện sử dụng các biện pháp tránh thai)? Hay giáo dục tốt hơn và giàu có hơn là một phần quan trọng của tất cả các chiến lược phát triển xã hội khác? Tất cả các phương pháp này đều có lợi thế. Không có thuốc chữa bách bệnh. Mặc dù vậy, một số ưu tiên vẫn còn rõ ràng: nhu cầu về các dịch vụ hỗ trợ và tránh thai tự nguyện, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và dinh dưỡng cho phụ nữ có thai, cho con bú và trẻ em dưới 5 tuổi, các ưu tiên này là tương hỗ và hợp lý. Chi phí cung cấp các biện pháp kế hoạch hóa gia đình cho bất kỳ ai có nhu cầu chưa được đáp ứng chỉ khoảng 6,7 tỷ USD mỗi năm, gần bằng với 6,9 tỷ USD mà người Mỹ dự kiến ​​chi cho Halloween. Năm nay. Ùn tắc giao thông ở Hà Nội là kết quả của sự gia tăng dân số đô thị. Ảnh: PV .

Nếu chúng ta sử dụng của cải-vật chất, môi trường, con người và tài chính nhanh hơn bằng cách tăng cường tiết kiệm và đầu tư để sử dụng của cải, thì chúng sẽ khiến các thế hệ tương lai phải trả giá đắt với cái giá là Sự thịnh vượng được hưởng ngày hôm nay. Một mặt, mâu thuẫn giữa hai yếu tố này là những ưu đãi ngắn hạn truyền cảm hứng cho các tổ chức chính trị và kinh tế và thậm chí cả gia đình chúng ta; mặt khác, đó là nguyện vọng dài hạn của chúng ta. Điều này rất nghiêm trọng.

Chúng ta phải tính toán khả năng rằng mọi đứa trẻ sinh ra đều là những đứa trẻ lý tưởng, được chăm sóc tốt và có cái nhìn tốt về cuộc sống. Chúng ta cần bảo vệ và sử dụng năng lượng, nước, đất đai, vật chất và đa dạng sinh học được cung cấp cho chúng ta theo cách thông minh hơn.

Do đó, chúng ta cần đánh giá tăng trưởng theo khía cạnh thịnh vượng: không giới hạn ở số lượng người trên hành tinh, không thông qua các tính toán sai lệch như GDP, mà thông qua cách đáp ứng các nhu cầu cơ bản của nhân loại; làm thế nào để chúng ta thúc đẩy phẩm giá, sự sáng tạo, Cộng đồng và sự hợp tác; cách chúng ta chăm sóc môi trường sinh học và vật lý – ngôi nhà duy nhất của chúng ta. – Phạm Ngọc Uyên

Leave a Reply

Your email address will not be published.